Thứ Tư, 11 tháng 6, 2014

Thành cổ Nam Định (*) tin tức

Một trong những di tích tiêu biểu ấy là Thành cổ Nam Định. Ngay từ thời Nguyễn, vua Gia Long đã nhóng: Vị Hoàng, vùng đất xung yếu của Thành Nam, án ngữ con đường lì xì từ Nam ra Bắc về thủy cũng như bộ, trấn giữ hai cửa Sông Hồng, Sông Đáy, bao quát một vùng châu thổ rộng lớn có tầm chiến lược quan trọng hơn Vân Sàng. Vị Hoàng là trọng tâm phía Nam Đồng bằng Sông Hồng; dân đông, phong lưu; đất đai màu mỡ; sản vật dồi dào; có truyền thống văn hóa và tranh đấu.

Một góc Thành cổ Nam Định.

Nam Định bấy giờ có vị trí chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa lớn. Năm Gia Long thứ III (1804) lúc đầu thành mới đắp bằng đất, hình vuông theo kiểu Vô-băng. Đến năm Gia Long thứ XIII (1814) mới ghép gạch xây thành. Thành cổ Nam Định chu vi 830 trượng 7 thước 3 tấc; diện tích nội thành ngót 70 vạn mét vuông; có 4 cửa; quanh thành cách tường thành 6, 7m đào hào rộng 6 trượng, sâu 6 thước. Chân tường xây bằng đá xanh, phía trên bằng đá ong. Thành xây ở địa phận Vị Hoàng, Năng Tĩnh, Tức Mặc thuộc huyện Mỹ Lộc, nguyên trước là doanh Vị Hoàng.

Nằm ở phía Tây Bắc thị thành, thành Nam Định có 4 cửa Đông, Tây, Nam, Bắc. Trên mỗi cửa thành xây thú lâu (vọng canh). Ngoài cửa thành có một đoạn tường thành hình chữ V gọi là Dương Mã. Các quan xưa còn đặt 5 điếm: Điếm Quân Trung (nay là đầu phố Lê Hồng Phong – Hoàng Văn Thụ), điếm Đông Thành, Vịnh Thịnh, Tiền Môn và An Lạc ở 4 mặt thành. Mặt Đông thành hướng ra phố xá buôn bán, mặt Nam nhìn ra một bãi tập của lính, phía tay trái cũng có đường ra phố, thiên về bên phải là một cánh đồng lầy khá rộng. Qua một đoạn đường là đến Đồn Thủy, có quân đóng bảo vệ đô thị khi bị địch tiến công từ phía cửa Độc Bộ theo sông máng lên. Trước mặt Tây là cánh đồng khô rộng lớn, nổi lên khu trường sở lịch sử, Văn Miếu và nhà học của tỉnh. Mặt Bắc là vùng chiêm trũng ngập nước lầm lội, về mùa mưa thuyền nan có thể từ tỉnh thành đi về các huyện Ý Yên, Vụ Bản, Bình Lục, liêm khiết. Nội ô hình vuông, bên trong có điện Kính Thiên; đình (nay là chùa) Vọng Cung, mái cong lợp ngói mũi hài, cột lim đen bóng, nhuốm màu thiền tịch tôn nghiêm; nơi các quan đầu tỉnh đến kì tụ về tế cáo… Sau Vọng Cung là các dinh Tổng đốc (nay là Bệnh viện E), Án sát, Đề đốc hay Chánh lãnh, cơ quan kho bạc; phía sau khu hành chính là kho lương thảo có thể chứa tới 5 vạn hộc (khoảng 3.000 tấn). Sát cửa Tây là khám đường, trại giam, chuồng voi, chuồng ngựa. To lớn oai nghi hơn cả là kì đài (cột cờ) ở phía Nam, cách đình Vọng Cung chừng 100m, xây năm Nhâm Thân (1812). Cột cờ cao 23,84m, dưới bệ có đền Bà Chúa Cột Cờ thờ Giám Thương công chúa Nguyễn Thị Trinh, liệt nữ trước tiên, hi sinh trong trận quân xâm lược Pháp đánh chiếm thành Nam Định ngày 11/12/1873. Khi thành rơi vào tay giặc Pháp 2 lần vào ngày 11/12/1873 và ngày 27/3/1883, cờ quân Nam bị hạ, cờ Pháp kéo lên! Năm 1972, Cột cờ bị bom Mỹ đánh sập. Năm 1997 mới hoàn tất phục chế.

Năm 1894 – 1895, thực dân Pháp bạt thành lấp hào, xây dựng lại thành phố, chỉ để lại một đoạn thành Cửa Bắc dài hơn 200m và một mỏm thành ở cửa Đông Nam. Sau thực dân Pháp lợi dụng tường thành Cửa Bắc xây dựng một trường kiêm bị 19 lớp, còn gọi là Trường Trong; Trường Ngoài xây dựng ở mỏm thành Đông Nam nhỏ hơn, sau thực dân Pháp phá đi xây ngân khố và Ngân hàng Đông Dương. Qua Quốc lộ 21, cách chân tường thành Cửa Bắc hơn 100m là trường Thành Chung lịch sử, nơi các đồng chí Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân… từng học tập, lập chí ra đi làm Cách mạng.

Những năm 50 thế kỉ trước, Pháp đóng chiếm thành phố Nam Định dựa vào thành Cửa Bắc làm phòng tuyến, xây dựng lô cốt chắc chắn. Trong cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, hàng vạn công nhân Nhà máy Dệt Nam Định vẫn không rời xưởng nhờ hệ thống “địa đạo” dài hơn 2 cây số nối ra tận Nhà máy Cơ khí ở phía Bắc thành phố. Hòa bình lập lại, công nhân Nhà máy Dệt Nam Định và quần chúng vùng phụ cận lập phố, dựng nhà mang tên Ngõ 5 Thành Chung thuộc phường Cửa Bắc với 100 hộ bám sát chân tình, đôi chỗ tuy có bị phạt phá nhưng nhìn chung thành vẫn gần như nguyên dạng.

Nếu Bắc Thành từng là địa danh của Hà Nội, Thành Nội là của Huế, thì Thành Nam chính là cách gọi tên của thị thành Nam Định từ bấy đến giờ. Nếu được quốc gia đầu tư giải tỏa, sửa chữa thì đây sẽ là một trong những điểm nhấn du lịch quan yếu mang tầm vóc ý nghĩa văn hóa sâu xan

 (*) Có tham khảo, trích dẫn “Thành Nam xưa” của Vũ Ngọ Lý và “Bà Chúa Cột Cờ” của Phạm Trọng Thanh. 

  Phạm Ngọc Khảnh  


0 nhận xét:

Đăng nhận xét